Trong lịch sử đấu tranh giữ
nước của dân tộc, quân dân ta đã làm nên nhiều chiến công hiển hách. Mỗi chiến
công đã để lại một mốc son chói lọi và làm rạng rỡ nền văn hóa quân sự độc đáo
Việt Nam .
Xin giới thiệu 5 trận thắng tiêu biểu nhất từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII.
Khí thiêng sông núi đọng
lại ở Bạch Đằng
Cuối năm 938, Ngô
Quyền (898-944) đã huy động quân dân đẵn gỗ, đẽo cọc vát nhọn, bịt sắt cắm đầy
lòng sông Bạch Đằng ở những chỗ hiểm yếu gần cửa biển tạo thành một trận địa
ngầm, hai bên bờ có quân mai phục. Giặc tới, nước triều đang lên ngập hết bãi
cọc, Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến, dụ quân giặc từ vịnh Hạ Long vào
sông Bạch Đằng, rồi vờ thua chạy. Đợi khi nước thủy triều rút xuống, Ngô Quyền
hạ lệnh cho toàn quân đánh quật trở lại. Thủy quân giặc hốt hoảng quay đầu
chạy. Ra đến gần cửa biển, thuyền địch đâm phải cọc nhọn, bị vỡ và bị đắm rất
nhiều. Quân giặc phần bị giết, phần chết đuối, phần còn lại phải đầu hàng hoặc
bị quân ta bắt sống.

Trong tâm thức nghìn
năm của người Việt Nam, Bạch Đằng đã trở thành điểm hội tụ của sức sống dân
tộc, đúng như lời ngợi ca của Phạm Sư Mạnh: “Vũ trụ kỳ quan Dương Cốc
nhật/Giang san vương khí Bạch Đằng thâu” (Kỳ quan của vũ trụ là mặt trời lên
tại hang Dương Cốc/Khí thiêng của núi sông đọng lại ở chốn Bạch Đằng).
Như Nguyệt , thế thắng
như vũ bão
Ngày 8-1-1077, quân
xâm lược Tống tiến vào nước ta theo hai ngả ở biên giới phía Bắc và một ngả
theo đường biển Đông Bắc. Một đêm tháng 3 năm đó, 400 chiến thuyền của quân ta
ngược dòng sông Như Nguyệt bất ngờ đánh vào cụm quân Quách Quỳ từ hướng Đông.
Địch bị bất ngờ, ta thừa thắng chia cắt thành từng mảng và tiêu diệt. Từ hướng
Tây Bắc, Lý Thường Kiệt kéo chủ lực vu hồi vào đạo quân Quách Quỳ cách đó 30km.
Đạo quân của Thân Cảnh Phúc chặn ở Chi Lăng, phía sau quân ta truy kích theo.
Phần lớn quân địch bị tiêu diệt và số còn lại buộc phải rút về nước.
Trận đánh trên sông
Như Nguyệt nằm trong tổng thể ý đồ tác chiến chiến lược của Lý Thường Kiệt là
tiến công sang đất địch, rồi tổ chức phòng ngự chiến lược để phản công đánh bại
hoàn toàn ý đồ xâm lược của chúng. Trong thế thắng, ta vẫn chủ động giảng hòa,
mở đường cho giặc rút về nước.
Ba lần đại thắng quân
Nguyên Mông
Tháng 1-1258, một đạo
quân gồm kỵ binh Mông Cổ và binh lính người Thoán Vân Nam, do tướng Ngột Lương
Hợp Thai chỉ huy, từ Vân Nam đánh xuống Đại Việt. Quân ta rút lui, bỏ Thăng
Long lại phía sau, nhưng triều đình nhà Trần và quân dân vẫn không nao núng.
Ngày 29-1-1258, vua Trần Thái Tông đã đem binh thuyền ngược sông Hồng tiến về
Thăng Long. Quân địch bị đánh bật khỏi kinh thành, theo đường cũ, chạy về Vân
Nam. Cuộc xâm lược thứ nhất của chúng bị thất bại.
Cuối năm 1284, đạo
quân Nguyên Mông do Thoát Hoan chỉ huy sang xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Cuối
tháng 5-1285, Trần Quang Khải cùng với Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản đã đánh
tan giặc ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, rồi tiến lên giải phóng Thăng Long.
Đám tàn quân hoảng loạn cố mở đường máu tháo chạy về nước. Cuộc chiến tranh xâm
lược của Nguyên Mông lần thứ hai bị sụp đổ.
Ngày 9-4-1288, đoàn
thuyền chiến của Ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng. Khi đoàn thuyền giặc lọt vào
trận địa mai phục của ta thì từ các nhánh sông, các thuyền nhẹ của ta lao ra,
đánh tạt vào sườn giặc, dồn chúng vào các bãi cọc. Nước triều xuống gấp, thuyền
giặc to nặng, lao nhanh theo dòng nước, vướng cọc, tan vỡ rất nhiều. Đến đầu
giờ tối, toàn bộ đạo quân thủy của giặc bị tiêu diệt. Thêm một lần nữa, dòng
Bạch Đằng lại ghi thêm một chiến công oanh liệt.
Trong vòng ba mươi
năm, quân dân ta đã ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông, đội quân xâm lược mạnh
nhất và hung hãn nhất thời đó, bảo vệ quyền độc lập tự chủ của đất nước. Sức
mạnh để làm nên chiến thắng vĩ đại ấy là khối đoàn kết toàn dân như Trần Hưng
Đạo đã nói: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước nhà chung sức” và:
“Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”.
Trận Chi Lăng-Xương
Giang, điển hình về chiến thuật tổng hợp
Cuối năm 1427, cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi-Nguyễn Trãi lãnh đạo chống quân Minh xâm lược bước
sang năm thứ 10 và đã đứng trước cửa ngõ thắng lợi hoàn toàn. Nhưng để cứu vãn
đạo quân Vương Thông đang bị vây hãm ở Đông Quan, giặc Minh đã quyết định phái
sang nước ta một đạo viện binh gồm 10 vạn tên do Liễu Thăng chỉ huy. Ngày
10-10, đội tiền quân do Liễu Thăng dẫn đầu rất chủ quan nên đã rơi vào trận địa
phục kích của Lê Sát ở cửa ải Chi Lăng. Toàn bộ 1 vạn tên của đội quân này cùng
với chủ tướng Liễu Thăng bị diệt dưới chân Mã Yên-Chi Lăng. Đạo viện binh bị
tiêu diệt, Vương Thông bị vây ở thành Đông Quan phải đầu hàng và buộc nhà Minh
phải chấp nhận rút các lực lượng còn lại về nước, thừa nhận nền độc lập của
nước ta.
Việc kết hợp tiến công
quân sự với nghi binh, địch vận và vận dụng thành công các hình thức chiến
thuật: phục kích, tập kích, truy kích, công thành, tác chiến trận địa... trong
trận Chi Lăng-Xương Giang đã đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc trong nghệ
thuật quân sự của quân ta.
Đại thắng Thăng Long
trong mùa xuân Kỷ Dậu 1789
Cuối năm Mậu Thân
(1788), 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị thống lãnh, đã tràn vào chiếm đóng
kinh thành và kiểm soát phần lớn đất Bắc Hà. Giành được thắng lợi tương đối dễ
dàng, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra rất chủ quan. Đúng đêm giao thừa Tết Kỷ Dậu, quân Tây
Sơn bất ngờ tiến công tiêu diệt đồn tiền tiêu của giặc ở Gián Khẩu, cách Thăng
Long gần 90km, mở đầu cuộc đại phá quân Thanh. Mờ sáng mùng 5 Tết (30-1-1789),
đạo quân chủ lực của Quang Trung phối hợp với đạo quân đô đốc Bảo công phá và
tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Ngọc Hồi-Đầm Mực. Cùng lúc đó, đạo quân do đô đốc
Long chỉ huy, bất ngờ diệt đồn Đống Đa rồi đánh thọc sâu vào đại bản doanh của
Tôn Sĩ Nghị ở cung Tây Long. Sự phối hợp hai trận đánh Ngọc Hồi, Đống Đa làm
cho Tôn Sĩ Nghị hết sức bất ngờ, choáng váng và lâm vào thế hoàn toàn bất lực,
sụp đổ.
Bằng lối đánh thần tốc
và một thế trận kết hợp tiến công chính diện mãnh liệt với những mũi thọc sâu
bất ngờ và những mũi vu hồi sau lưng, quân ta đã đặt quân Thanh vào thế hoàn
toàn bị động, bất ngờ đi từ thất bại này đến thất bại khác và cuối cùng phải
chấp nhận sự thảm bại, tháo chạy trong hoảng loạn. Đại thắng xuân Kỷ Dậu 1789
biểu thị tập trung thiên tài quân sự của người Anh hùng áo vải cờ đào Quang
Trung-Nguyễn Huệ.
LÃNG XUYÊN ( nguồn : qdnd.vn)




2 nhận xét:
ong cha da song anh hung thi doi sau chau con anh hung
Cái nếu thì đó không phải là điều hiển nhiên, chả phải cố gắng hy sinh gì mà có được đâu. Chúng ta tuyệt đối không được để hổ thẹn với cha ông.
Đăng nhận xét
♦ Mời bạn gửi Nhận xét của mình. Nếu không có tài khoản, bạn vẫn có thể nhận xét bằng cách Chọn hồ sơ là Tên/URL hay Ẩn danh.
♦ Các bạn nên để lại nhận xét của mình để góp ý , phản hồi, đánh giá bài viết . Thông qua Nhận xét hãy để cho mọi người biết Bạn là ai.
BQT + NLH +